Triết học Hy Lạp cổ đại
Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy lạp cổ đại
Hoàn cảnh lịch sử:
* Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và phát triển trong khoảng thời kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ VIII tr.CN đến thế kỷ III. Thời kỳ này phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh mẽ, với hai trung tâm kinh tế – chính trị điển hình là thành bang Aten (với hai tầng lớp cơ bản là dân chủ và chủ nô) và thành bang Spac (chủ yếu là tầng lớp chủ nô quý tộc).
* Tương ứng với hai trung tâm kinh tế – chính trị này là hai thế chế nhà nước khác nhau về hình thức: Nhà nước chủ nô dân chủ Aten và nhà nước chủ nô quân chủ Spac.
* Người Hy Lạp cổ đại đã kế thừa được rất nhiều kiến thức của người phương Đông mà trước hết phải kể tới những kiến thức về khoa học tự nhiên của người Ai Cập, Babilon và một phần là những kiến thức của người Ấn Độ cổ đại.
Đặc điểm của triết học Hy lạp cổ đại:
Thứ nhất, sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát sinh, phát triển triết học; trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai “đường lối” triết học: đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn.
Thứ hai, các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận triết học – là những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Triết học Hy Lạp cổ đại gồm nhiều trường phái lớn:
Phái duy vật Milê với những nhà triết học tiêu biểu là Talet (624-547 tr.CN),
Anaximanđrơ (610 – 546 tr.CN) và Anaximen (585 – 525 tr.CN);
Phái Êphedơ với triết gia biện chứng tiêu biểu là Hêraclít (520 – 460 tr.CN); phái Pitago với những tư tưởng triết học duy tâm về các con số của Pitago (571 – 479 tr.CN);
Phái Êlê với các triết gia là Xênôphan (570 – 487 tr.CN), Pácmênit (cuối TK VI đầu TK V tr.CN) và Dênôn (490 – 430 tr.CN);
Phái duy vật nguyên tử với các triết gia Lơxíp (500 – 440 tr.CN) và Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN);
Phái duy vật thô sơ với các đại biểu Anaxago (500 – 428 tr.CN) và Ămpêđôclơ (490 – 430 tr.CN);
Phái duy tâm chủ quan của Xôcrát (469 – 399 tr.CN) và cuối cùng là Arixtốt (384 – 322 tr.CN) – nhà “bách khoa vĩ đại nhất của người Hy Lạp cổ đại”.
Một số nhà triết học tiêu biểu
Hêraclít (520 – 460 tr.CN)
* Ông cho rằng là vật chất, bản nguyên đầu tiên của thế giới là lửa. Theo ông, lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố đầu tiên của mọi dạng vật chất; “tất cả đều được trao đổi với lửa và lửa trao đổi tất cả như vàng thành hàng hóa, và hàng hoá thành vàng”.
* Hêraclít còn là nhà biện chứng đầu tiên trong lịch sử triết học. Ông đã có quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít: mọi vật đã trôi đi, chảy đi, không có cái gì giữ nguyên tại chỗ, tất cả mọi vật đều vận động, không có cái gì tồn tại mà cố định. Ông khẳng định:không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì nước không ngừng chảy trên sông.
* Hêraclít còn nêu lên những phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Theo ông, cái đồng nhất trong sự khác biệt, đó là cái hài hòa của những cái căng thẳng đối lập. Ông còn nêu lên vấn đề sự phân đôi cái đơn nhất, về sự nhận thức nhữnbộ phận mâu thuẫn của nó, về sự chuyển hóa từ mặt đối lập này sang mặt đối lập khác, về sự trao đổi những mặt đối lập.
* Hêraclít đã có những quan điểm đúng đắn về lý luận nhận thức. Ông cho rằng, nhận thức thế giới là nhận thức lôgôt của vũ trụ, nghĩa là nhận thức tự nhiên và xã hội trong trạng thái đấu tranh và hài hòa của những mâu thuẫn của chúng.
Ông rất coi trọng nhận thức cảm tính nhưng không tuyệt đối nó. Theo ông, thị giác thường bị lừa vì tự nhiên thích giấu mình nên muốn nhận thức được nó phải tư duy, phải có óc sáng suốt. Ông còn nêu lên tính tương đối của nhận thức tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện – ác, xấu -tốt, lợi – hại chuyển hóa cho nhau.
Với phép biện chứng, mặc dầu chỉ là phép biện chứng tự phát và chất phát, Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước phát triển mới.
Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN)
Đêmôcrít là một trong những nhà duy vật lớn nhất thời cổ đại.
* Đêmôcrít cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ những nguyên tử, đó là phần tử vật chất bé nhỏ, là cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa.
* Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmôcrít cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
* Đêmôcrít phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất; đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc.
* Đêmôcrít nêu ra khái niệm không gian. Theo ông không gian là khoảng “chân không rộng lớn”, trong đó những nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít cho rằng không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô cùng tận.
* Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrít là “quyết định luận” (thừa nhận rằng sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm chống lại “mục đích luận” (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không phải là tính nhân quả mà tính có mục đích).
Đêmôcrít có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên.
* Nét đặc sắc khác trong triết học duy vật của Đêmôcrít là chủ nghĩa vô thần. Đêmôcrít cho rằng, sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người đã bất lực trước những hiện tượng khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người.
Platôn (427 – 347 tr.CN)
Platôn là người xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclít và Đêmôcrít.
* Theo Platôn, giới tự nhiên – thế giới của những vật cảm tính – bắt nguồn từ những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm.
* Về nhận thức: Ông cho rằng, để nhận thức đ ược chân lý, ngư ời ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí này được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
* Phép biện chứng của Platôn là phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Do đó, “Đường lối Platôn” chống lại “đường lối Đêmôcrít” trong triết học cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của Đêmôcrít. Các hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ toán học. Đạo đức học của Platôn được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
* Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Arixtốt (384 – 322 tr.CN)
Arixtốt là đại biểu cho trí tụê bách khoa của Hy Lạp cổ đại. C.Mác gọi Arixtốt là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại; Ph.Ăngghen coi Arixtốt là khối óc bách khoa nhất trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Arixtốt đã nghiên cứu triết học, lôgic học, khoa học tự nhiên, sử học, chính trị học, mỹ học….
* Sự phê phán của Arixtốt đối với Platôn là một đóng góp quan trọng trong lịch sử triết học. Arixtốt đã đề ra một loạt luận điểm quan trọng phản bác lại chủ nghĩa duy tâm của Platôn. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất; giới tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Do đó, muốn giải thích thế giới vận động, biến đổi thì không cần đến những ý niệm của Platôn.
Khi phê phán Platôn, Arixtốt đã chống lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy tâm nói chung, nhưng học thuyết đó của ông cũng chưa vượt qua được những tư tưởng thần học và mục đích luận. Do đó, nó mâu thuẫn với tất cả những tiến bộ trong “khoa học bách khoa” của ông, gần gũi với “đường lối Platôn” và bộc lộ rõ chủ nghĩa duy tâm. Nhận định về sự do dự của Arixtốt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm giải thích tính chất duy tâm trong học thuyết của Arixtốt, V.I.Lênin viết: “Đương nhiên, đó là chủ nghĩa duy tâm, nhưng một chủ nghĩa duy tâm khách quan hơn, xa xôi hơn và chung hơn so với chủ nghĩa duy tâm của Platôn, và do đó, trong triết học tự nhiên, nó thông thường là = chủ nghĩa duy vật”. Ở Arixtốt, chủ nghĩa duy tâm không phải là một hệ thống như ở Platôn mà chỉ một số quan niệm duy tâm tự mâu thuẫn với xu hướng duy vật trong triết học về tự nhiên của ông.
Nhận thức luận của Arixtốt có vai trò to lớn trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Bác bỏ thế giới “ý niệm” của Platôn, Arixtốt thừa nhận thế giới vật chất là đối tượng thực tế của nhận thức, là nguồn gốc của cảm giác. Cảm giác luận và kinh nghiệm luận trong lý luận về nhận thức của Arixtốt đối lập với thuyết “Hồi tưởng” duy tâm của Platôn. Nếu Platôn coi nguồn gốc duy nhất của hiểu biết là do linh hồn bất tử nhớ lại thế giới “ý niệm”, thì Arixtốt cho rằng không ai cảm giác là không nhận thức và không hiểu biết gì hết. Ở điểm này, Arixtốt là nhà cảm giác luận duy vật.
Arixtốt đã nghiên cứu một cách sâu sắc những vấn đề của phép biện chứng và lôgic học. Phép biện chứng của ông thể hiện rõ trong cách giải thích cái chung và cái riêng. Nếu như Platôn coi “ý niệm” với tính cách là cái chung hoàn toàn tách rời khỏi sự vật với tính cách là cái riêng, thì Arixtốt lại đặt cái chung trong sự thống nhất với cái riêng.
Arixtốt người đặt nền móng cho lôgic học (khoa học về những quy luật và những hình thức của tư duy). Lần đầu tiên ông đưa tư duy trở thành đối tượng nghiên cứu của một môn khoa học. Đó là khoa học lôgic. Lôgic hình thức của Arixtốt đã nêu ra những phương pháp cơ bản của việc xây dựng các khái niệm, phán đoán suy lý tam đoạn thức và chứng minh. Ông cũng là người đầu tiên nêu các quy luật cơ bản của lôgic học hình thức: “quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn lôgic và quy luật gạt bỏ cái thứ ba”.
Như vậy, lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc, thô sơ. Nó khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan không phải do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa, không khí, nguyên tử,…Song, do trình độ còn thấp của khoa học nên các nhà triết học duy vật đương thời chỉ có thể quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và phỏng đoán để rút ra những kết luận triết học. Tuy vậy, quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại.
Nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã nhận thức được và phát hiện nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng, sự vận động vĩnh viễn của vật chất, tính thống nhất của những mặt đối lập của sự vật,…Những yếu tố biện chứng đó chính là những phỏng đoán thiên tài, chưa được chứng minh một cách khoa học và cũng chưa được nghiên cứu một cách tự giác. Mác và Ăngghen gọi đó là phép biện chứng tự phát, ngây thơ nhưng đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của phép biện chứng.
Chủ nghĩa duy tâm trong triết học cổ đại đã có nhiều trào lưu khác nhau: chủ nghĩa duy tâm chủ quan (trường phái Pitago), chủ nghĩa duy tâm khách quan (trường phái Platôn), chủ nghĩa hoài nghi (trường phái Acađêmi) – chủ nghĩa bất khả tri cổ đại của Pirông. Chúng thường gắn với tín ngưỡng, tôn giáo và do đó thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.
Triết học Tây Âu thời trung cổ
Điều kiện kinh tế – xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời trung cổ
Điều kiện kinh tế – xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời kỳ trung cổ kéo dài hàng ngàn năm khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV. Đây là giai đoạn mà xét về góc độ triết học là bước thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, song xét về sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội thì như Ăng ghen đánh giá: là thời kỳ đầu cho sự phát triển mới, mà trong sự đau thương mất mát đã chứa đựng một nền văn minh của tương lai.
Những đặc điểm kinh tế-xã hội nổi bật sau đây:
* Về kinh tế: đây là giai đoạn thực hiện bước chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến:
+ Từ thế kỷ thứ V những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp khác bên trong cùng với sự tiến công của các man tộc bên ngoài đã dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc La mã phương Tây – chế độ nô lệ chấm dứt, chế độ phong kiến ra đời trên sự hoang tàn của kinh tế và văn hoá. Nghề thủ công suy sụp, thương nghiệp giảm bớt, các thành phố cổ đại tiêu điều nhường chỗ cho nền kinh tế nông nghiệp, trung tâm của cuộc sống chuyển về nông thôn với việc xác lập nền kinh tế tự nhiên, nô lệ trở thành những nông dân tự do.
+ Đặc điểm của nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, đóng kín và trì trệ dựa trên lao động thủ công thô sơ với hình thức bóc lột phát canh thu tô của địa chủ đối với nông dân. Nhìn chung đây là nền kinh tế thụt lùi so với thời cổ đại.
Song, cuối thời kỳ phong kiến (thế kỷ XII -XIV) nền kinh tế bắt đầu có sự phát triển: kinh tế tiền tệ dần thay thế nền kinh tế tự nhiên, thủ công nghiệp và thương nghiệp phát trỉển, nhiều thành phố thương cảng mọc lên, một số ngành kỹ thuật khá phát triển. Sự tiến bộ này tạo tiền đề cho thời kỳ phục hưng, cho sự quá độ từ phong kiến lên Tư bản.
* Về chính trị-xã hội: xã hội phân hóa thành hai giai cấp lớn là địa chủ và nông dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất, các tư liệu sản xuất khác cũng như sản phẩm làm ra thuộc về địa chủ phong kiến. Cuối thời kỳ này diễn ra các cuộc thập tự chinh thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, tạo ra một tầng lớp thị dân đương đầu với lãnh chúa đồng thời giúp cho văn hoá phương tây giao lưu với văn hoá phương Đông.
* Về mặt tinh thần: thời kỳ trung cổ ở Tây Âu lúc đầu là cơ đốc giáo sau là thiên chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị, những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét sử, tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị.
Giáo hội thiên chúa giáo là thế lực phong kiến quan trọng, giáo hội có quyền sở hữu đối với nhiều ruộng đất, là đại diện cho pháp luật và chính trị, là công cụ thống trị quần chúng về mặt tinh thần. Toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội đều đặt dưới sự thống trị của nhà thờ thiên chúa giáo.
Thời kỳ này, nông dân, thậm chí cả võ sỹ phong kiến không có học và không biết chữ, chỉ có tầng lớp tăng lữ có học để viết sách và giảng kinh, tăng lữ độc quyền thống trị văn hoá, dẫn tới thời kỳ này văn hoá phát triển chậm chạp và trì trệ. Các sử gia gọi đây là “đêm trường trung cổ”. Và là thời kỳ mà chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh viện đã ngự trị trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Tóm lại:
Giai đoạn lịch sử Tây Âu trung cổ là sự phát triển hợp quy luật, mặc dù thời kỳ đầu xét trên bình diện tư duy triết học và thế giới quan khoa học là một bước lùi so với thời kỳ cổ đại. Nhưng trong tổng thể của của tiến trình vận động, phát triển của lịch sử thì những thành quả của kinh tế văn hoá, khoa học trong giai đoạn này là những tiền đề tất yếu cho sự phát triển liên tục của lịch sử châu Âu. Đó là những điều kiện không thể thiếu cho sự ra đời, phát triển và phục hưng của các giá trị kinh tế, văn hoá và khoa học của châu Âu hiện đại.
Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
Đặc điểm 1: Triết học Tây Âu trung cổ bị chi phối mạnh bởi tư tưởng thần học và tôn giáo của thiên chúa giáo. Triết học thời kỳ này mang đậm tính tôn giáo, hầu hết các nhà triết học là và chứng minh cho những tín điều tôn giáo của nhà thờ. Đây là thời kỳ thụt lùi so với thời kỳ cổ đại.
Đặc điểm 2: Triết học thời kỳ này với đặc trưng bao trùm là triết học kinh viện, được nghiên cứu sáng tạo chủ yếu bởi các nhà triết học thần học trong các cơ sở giáo dục của cơ đốc giáo (tu viện, trường dòng), do đó nó xa rời thực tiễn của xã hội và con người.
Triết học tập trung giải quyết một vấn đề xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học Tây Âu khoảng một nghìn năm và cũng là vấn đề trung tâm: đó là mối quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ lý trí của con người và họ coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí vai trò hàng đầu trong quan hệ với lý trí.
Đặc điểm 3: Các nhà triết học đều giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng (giữa khái niệm và các sự vật riêng lẻ), trên cơ sở đó nảy sinh hai khuynh hướng triết học phổ biến là chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh là biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm của thời Trung cổ.
Đặc điểm 4: Tinh thần nhân bản trong triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ là tinh thần nhân bản phi thực tế. Nó không hướng vào con người trong thực tế mà hướng tới những lực lượng siêu nhiên như đức chúa trời, thượng đế…
Đặc điểm 5: Sự tồn tại và phát triển của triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ không phải là sự đứt đoạn tuyệt đối với triết học cổ đại, mặc dù nó là bước lùi rất xa so với triết học Tây Âu cổ đại, nhưng đây là bước lùi hợp quy luật của sự phát triển, là đoạn đứt trong tính liên tục của sự phát triển đúng quy luật, cuối thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện những tư tưởng triết học tiến bộ đóng vai trò chuẩn bị cho sự phát triển mới của triết học ở thời kỳ Phục hưng với hai đại biểu là R.Bêcơn và U. Ôccam.
Một số đại biểu của phái Duy danh và Duy thực
Tômát Đacanh (1225 – 1274)
Là đại biểu của phái Duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa nhận là triết học chính thức duy nhất của giáo hội thiên chúa.
Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Với 18 cuốn sách trong tuyển tập của ông, hợp thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.
Tômát Đacanh cho rằng triết học không có mâu thuẫn với thần học nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn “lý trí của thần”. Giới tự nhiên do trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của trời. Trật tự đó được trời quyết định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn, tiến qua con người, tới các thần thánh và sau cùng là bản thân chúa trời. Mỗi bậc dưới đều cố gắng đạt lên tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới chúa trời.
Theo Tômát, con người do chúa trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo các đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt khỏi đẳng cấp của mình là có tội với chúa trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.
Tóm lại, nguyên lý cơ bản của triết học Tômát Đacanh là sự hài hoà giữa đức tin và lý tính, lý tính có thể chứng minh một cách hợp lý sự tồn tại của thượng đế và có thể bác bỏ những ý kiến chống lại chân lý của đức tin. Vì thế ông được coi là nhà duy thực ôn hoà. Bắt đầu từ năm 1879, hệ thống kinh viện của ông được coi là triết học chân thực của đạo thiên chúa và được các nhà tư tưởng chống cộng sử dụng để đấu tranh chống lại thế giới quan khoa học mác xít.
Đơn Xcốt (1265 – 1308)
Được coi là nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII.
* Vấn đề chủ yếu mà Đơn Xcốt quan tâm là giải quyết mối quan hệ giữa thần học và triết học. Ông có ý tưởng muốn giải phóng triết học khỏi áp bức của giáo hội, cắt đứt mối liên hệ giữa triết học với thần học. Theo ông, thần học nghiên cứu thượng đế, còn triết học nghiên cứu hiện thực khách quan. Lý trí của con người, theo Đơn Xcốt, chỉ có thể nhận thức ở tồn tại những gì mà nó không thể tách rời khỏi các tài liệu cảm tính. Cho nên, con người không có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như Chúa trời, Thượng đế. Tuy nhiên, Đơn Xcốt không hạ thấp lòng tin tôn giáo. Ông cho rằng, Thượng đế là một tồn tại bất tận, không thể chứng minh được bằng lý trí mà phải dựa vào lòng tin.
Đơn Xcốt đứng trên lập trường của phái duy danh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Ông cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật. Điều đó có nghĩa là cái chung vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của sự vật, vừa tồn tại với tính cách là những khái niệm được lý trí của con người trừu tượng hoá khỏi bản chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức, Đơn Xcốt cho rằng tinh thần và ý trí là hình thức của thân thể con người và gắn liền với thân thể con người đang sống do thượng đế ban cho từ khi con người mới được sinh ra. Tri thức của con người được hình thành từ thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. Chỉ có những sự vật đơn nhất và cá biệt là thực tại cao nhất.
Rôgiê Bêcơn (1214 – 1294)
Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội, ông được coi là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, ông phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến.
R.Bêcơn đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống triết học kinh viện, mở đường cho mối quan hệ giữa triết học và các khoa học bộ phận. Theo ông, triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản, bản thân triết học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.
R.Bêcơn nêu ra những nguyên nhân cản trở chân lý là: do sự sùng bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng; do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có; do tính vô căn cứ của sự ngu dốt của các nhà bác học dưới các mặt nạ của sự thông thái hư ảo.
Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực nghiệm; kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri thức khoa học “không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”. Đây chính là sự tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống lại chủ nghĩa kinh viện.
Đối lập với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học, R.Bêcơn hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Bản thân ông đã có nhiều đóng góp cho các ngành khoa học thực nghiệm.
R.Bêcơn cũng có những tư tưởng xã hội tiến bộ. Ông bênh vực quyền lợi của nhân dân, lên án áp bức bóc lột của phong kiến. Ông cũng chống Giáo hoàng và bóc trần những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng không chống tôn giáo nói chung.
Tóm lại, triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật, ông đã nắm bắt được những biến đổi xã hội vừa mới xuất hiện, và đi trước thời đại ông trong những mơ ước và ý tưởng về sự tiến bộ khoa học. Vì vậy, ông luôn luôn bị nhà nước phong kiến giáo hội truy nã, cầm tù.
Tuy nhiên, R.Bêcơn không thể thoát khỏi những hạn chế của thời mình, thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, ông tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lòng tin, và ông cũng đã dành thời gian để nghiên cứu về “tính chất rõ ràng của tư tưởng” xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của thượng đế, và về “lý trí hoạt động tiên nghiệm”
Tóm lại:
Các nước Tây Âu thời trung cổ đã chìm đắm trong đêm trường của những tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học và chủ nghĩa ngu dân. Trong đó chủ nghĩa kinh viện, với phương pháp suy luận hình thức, cóp nhặt và tư tưởng khắc kỷ giả dối đã thống trị tư tưởng xã hội.
Tuy nhiên, sự đấu tranh dai dẳng chống lại trào lưu duy thực của trào lưu duy danh đã góp phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho sự ra đời của khoa học và triết học thời Phục hưng và cận đại.
Triết học thời phục hưng và cận đại
Hoàn cảnh ra đời và nét đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Hoàn cảnh lịch sử
* Về kinh tế:
Thời kỳ phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV – XVI). Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản đã hình thành trong lòng xã hội phong kiến có xu hướng trở thành phương thức sản xuất thống trị, phá vỡ những cát cứ phong kiến lâu đời trung cổ. Việc phát hiện ra châu Mỹ (1492) và con đường hàng hải vòng quanh châu Phi mở đường sang Ấn Độ, Trung Quốc(thế kỷ XVI) đã đem lại cho thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp một đà phát triển chưa từng có.
* Về chính trị – xã hội:
Đi cùng với phương thức sản xuất TBCN là sự ra đời của giai cấp tư sản, giai cấp này có xu hướng ngày càng lớn mạnh đối lập với lực lượng phong kiến bảo thủ. Song, giai cấp tư sản mới lên còn non yếu phải dựa vào nhà nước tập quyền phong kiến của vua chúa để phát triển nền kinh tế theo phương thức sản xuất mới.
* Về khoa học:
Do yêu cầu của thực tiễn sản xuất, các ngành khoa học tự nhiên (đặc biệt là thiên văn học) được phát triển. Thời kỳ này có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô, Galilê, Nicôlai Kuzan, Tômát Morơ, v.v..
Trong số lớn những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi hơn cả thuyết nhật tâm (lấy mặt trời làm trung tâm) của Nicôlai Côpécních (1475 -1543), để bác bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê (người Hy Lạp thế kỷ II), một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời. Thuyết nhật tâm của Côpécních đã giáng một đòn nặng nhất vào thần học, vào thế giới quan tôn giáo, vào những truyền thuyết của tôn giáo. Phát minh của Côpécních là “một cuộc cách mạng trên trời” báo trước một cuộc cách mạng trong các lĩnh vực các quan hệ xã hội.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên đã tạo nên vũ khí tư tưởng mạnh mẽ để giai cấp tư sản chống lại hệ tư tưởng duy tâm và tôn giáo. Khoa học tự nhiên phát triển đã đặt ra nhiệm vụ cho triết học là phải định ra một phương pháp nhận thức mới dựa trên kinh nghiệm, dựa trên sự nghiên cứu tự nhiên bằng thực nghiệm.
* Về mặt tinh thần
Trong thời đại phục h ưng ở Tây Âu, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã bênh vực triết học duy vật, chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học trung cổ. Tuy vậy, trong các hệ thống triết học ở thời đại này, các yếu tố của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thường xen kẽ nhau, xu hướng vô thần biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần luận. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập những lập luận kinh viện.
Đây là thời kỳ xuất hiện những người “khổng lồ” về tư tưởng như Montaigne, Canvanh (Pháp), Wiliam, Shakespeare (Anh), Leonađơ Vixi, Raphaen, Miken Langiêlo (Ý).
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm vào cuối thế kỷ XVI rất quyết liệt. Tòa án của giáo hội đã quyết án tử hình Brunô, thiêu sống ông trên “quảng trường hoa” ở La Mã chỉ vì Brunô đấu tranh bảo vệ học thuyết Côpécních và bảo vệ quan điểm duy vật về thế giới.
Sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện trung cổ đã không ngăn cản được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật – tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo.
Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng:
* Triết học thời kỳ này chưa thoát hết yếu tố duy tâm, các yếu tố duy tâm và duy vật xen kẽ nhau, nó mang yếu tố “phiếm thần luận”, hay “tự nhiên thần luận”.
* Triết học chịu ảnh hưởng lớn của của khoa học tự nhiên tới mức khó xác định được gianh giới giữa chúng, nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên, họ sử dụng những thành quả của khoa học tự nhiên làm cơ sở phát triển CNDV, chống thế giới quan thần học và triết học kinh viện.
* Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT biểu hiện dưới đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức kinh nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Đặc biệt CNDV thời kỳ này còn được thể hiện qua nền văn hoá nghệ thuật.
* Triết học thời kỳ này mang đặc sắc của chủ nghĩa nhân văn, phản ánh khát vọng của giai cấp tư sản đang ở trong quá trình hình thành phát triển. Nền triết học này đã hướng con người trở về với đời sống hiện thực, thoát khỏi những ảo tưởng tôn giáo, đấu tranh cho sự giải phóng con người. Vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới trở thành trung tâm của triết học.
Triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại
Tình hình kinh tế – xã hội,và khoa học
Thời cận đại (thế kỷ XVII – XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị (Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII và Cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII). Trong số các cuộc Cách mạng tư sản Tây Âu, thì Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) là cuộc cách mạng triệt để nhất – nó xóa bỏ toàn bộ chế độ phong kiến trung cổ, xác lập nền cộng hòa tư sản Pháp.
Phương thức sản xuất tư bản được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, công nghiệp và kỹ thuật rất phát triển. Đây là thời kỳ chuyển từ nền “ văn minh nông nghiệp” sang “văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát triển mạnh mẽ thị trường, tạo ra thị trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị trường quốc tế.
* Sự phát triển khoa học tự nhiên
Phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên – thực nghiệm. Đặc trưng này tất yếu dẫn đến “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời cô lập, không vận động, không phát triển có đề cập tới sự vận động thì chủ yếu là sự vận động cơ giới, máy móc.
Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại
Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử.
Những đặc trưng ấy được thể hiện rõ nét ở một số triết gia điển hình Hà Lan, Anh và Pháp như: Xpinôda, Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ, R.Đêcáctơ, G.La méttri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.Rútxô.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật, vô thần của thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những bước cải cách nhất định. Nhu cầu ấy đã được phản ánh đặc biệt rõ nét trong triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học thần học G.Béccli.
Một số triết gia tiêu biểu
Phranxi Bêcơn(1561 – 1621) người sáng lập triết học duy vật Anh.
* Thế giới quan: Bêcơn thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Khoa học không biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên.
Bêcơn cho rằng những thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động, vật chất luôn ở trong trạng thái vận động vĩnh viễn, vật chất có nhiều tính chất, do đó, vận động cũng có tính đa dạng.
* Lý luận nhận thức:
Ông cho rằng con người cần thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được hay không, tất cả phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Bêcơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức.
Nhằm xây dựng một cách nhìn mới, ông đã liệt kê và phê phán hai cách phương pháp đang sử dụng phổ biến lúc bấy giờ:
Một là phương pháp của các nhà kinh viện chủ nghĩa. Ông ví họ như những con nhện (phương pháp con nhện), chỉ biết nhả tơ và đan lưới, đưa ra những tiền đề vô căn cứ về bản chất của sự vật.
Hai là phương pháp của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông ví họ như như những con kiến (phương pháp con kiến), chỉ biết tha mồi không biết chế biến, chỉ biết sưu tầm lượm lặt, mô tả từng li từng tý các sự kiện vụn vặt.
Ông cho rằng các nhà khoa học chân chính phải như con ong (phương pháp con ong), vừa biết kiếm nguyên liệu trong các loài hoa, vừa biết chế ra mật tinh khiết.
Để tránh những sai lầm, theo Bêcơn, phương pháp nhận thức tốt nhất là phương pháp quy nạp tức là phương pháp đi từ cái riêng lẻ, ít chung hơn đến cái khái quát trừu tựơng, nhiều chung hơn. Tri thức chân chính chỉ có thể đạt được bằng cách giải thích những liên hệ nhân quả. Bêcơn coi phương pháp thực nghiệm là công cụ chủ yếu của nhận thức khoa học; khoa học cần nhận thức giới tự nhiên, chứ không cần những giáo lý của thần học.
Nhận xét về triết học của Bêcơn, Mác viết: “ở Bêcơn, người đầu tiên sáng tạo ra nó, chủ nghĩa duy vật còn che giấu, dưới những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt. Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người, trong vẻ lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ của nó”.
Chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là chủ nghĩa duy vật siêu hình nhưng đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của giáo hội và tôn giáo.
Tômát Hốpxơ (1588 – 1679)
Hốpxơ là nhà triết học duy vật nổi tiếng của Anh thế kỷ XVII, ông đã hệ thống hoá chủ nghĩa duy vật Bêcơn, loại bỏ nhiều yếu tố thần học và tiếp tục cuộc đấu tranh rất kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm và thần học. Hốpxơ cho rằng, sự sợ hãi và ngu dốt sinh ra tôn giáo.
* Về thế giới quan:
Theo ông giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan, không do thần thánh tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý thức con người.
Hốpxơ chia triết học thành “triết học tự nhiên”, nghiên cứu những vật thể thiên nhiên và “triết học thông thường” nghiên cứu những vật thể nhân tạo nghĩa là xã hội loài người. Trong một mức độ nhất định, Hốpxơ đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông về đối tượng và nhiệm vụ của triết học theo hướng tiến bộ, nhằm chống lại chủ nghĩa kinh viện. Hốpxơ mong muốn đưa ra một hệ thống triết học bao gồm hết thảy, gạt bỏ tính chất thần học và chống lại thuyết về “chân lý hai mặt” của Bêcơn.
Khác với Bêcơn, Hốpxơ là một nhà duy vật cơ học điển hình. Ông coi cơ học và toán học là mẫu mực của bất kỳ tư duy khoa học nào. Theo Hốpxơ, vận động là sự thay đổi vị trí của các vật thể, vận động không phải là cái vốn có bên trong của vật chất.
Là một nhà cơ học, Hốpxơ không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì, nếu không phải là chiếc lò xo, dây thần kinh là gì, nếu không phải là những sợi dây chỉ, còn khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh xe làm cho toàn thể cơ thể chuyển động.
Lý luận nhận thức:
Hốpxơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng, cơ sở nhận thức là tri giác cảm tính. Nhưng do hạn chế về mặt lịch sử, Hốpxơ vẫn chưa thể hiểu được mối quan hệ biện chứng của nhận thức cảm tính và lý tính.
* Về xã hội: Hốpxơ là nhà vô thần, nhưng không triệt để. Ông cho rằng tôn giáo và giáo hội có thể có lợi ích đối với nhà nước để làm “dây trói buộc trong xã hội”.
Rơnê Đêcáctơ (1596 – 1654).
Đêcáctơ là nhà triết học xuất sắc nhất của Pháp thế kỷ XVII, ông vừa là nhà triết học, toán học, vật lý học, vừa là nhà bách khoa trên nhiều lĩnh vực khác. Về triết học ông là nhà triết học nhị nguyên điển hình
Với tính chất nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều phục tùng nguyên thể thứ ba – nguyên thể tối cao là thần linh. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng tư sản.
Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức. Đềcáctơ cho rằng sự ghi nhớ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học. Đêcáctơ nhấn mạnh dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: tôi tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho đó là nguyên lý cơ bản, bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ, nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những gì người ta mê tín. Nhưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm vì Đêcáctơ đã không nhìn thấy rằng không thể đi tìm tiền để xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội.
Trong học thuyết về tự nhiên, ông cho rằng tự nhiên là một khối thống nhất gồm những hạt nhỏ vật chất có quảng tính và vận động vĩnh viễn theo đúng những quy luật cơ học.
Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá trình vận động. Nhưng ông chưa thấy sự khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt của con người với động vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật chất mà còn là thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông không phụ thuộc vào quá trình vật chất. Điều này biểu hiện quan điểm duy tâm trong triết học Đêcáctơ.
Xpinôda (1632 – 1677) là một trong những nhà triết học vĩ đại của thế kỷ XVII.
Vấn đề trung tâm của triết học Xpinôda là thuyết thực thể. Theo Xpinôda, thực thể là nguyên nhân đầu tiên của mọi cái đang tồn tại. Vì thực thể đồng nghĩa với bản chất vô tận cho nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận. Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà còn ở tư duy.
Nếu Đêcáctơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc tính của hai thực thể khác nhau – thực thể vật chất và thực thể tinh thần – thì đối với Xpinôda, hai thuộc tính này cũng là một thực thể thống nhất. Như vậy, học thuyết của Xpinôda về thực thể đã bác bỏ quan niệm nhị nguyên luận của Đêcáctơ, đồng thời còn chống lại quan niệm cổ truyền của mọi tôn giáo cho rằng thượng đế là đấng sáng tạo ra tự nhiên và con người.
Tuy nhiên, học thuyết về thực thể của Xpinôda cũng chưa thoát khỏi tính siêu hình. Ông cho rằng, thực thể bất động và bất biến, vận động không phải là thuộc tính vốn có thực thể mà là một dạng thức vận động vô tận tách rời thực thể, dùng để chuyển từ thực thể bất động thành thế giới của dạng thức vận động. Đấy là hạn chế của Xpinôda trong việc giải thích nguồn gốc của vận động.
Xpinôda là một nhà vô thần, trong hệ thống triết học duy vật của mình, ông đã phê phán tôn giáo, nêu ra nguồn gốc vai trò xã hội và bản chất tôn giáo. Song, chủ nghĩa vô thần của Xpinôda còn có những hạn chế vì ông quan niệm rằng mê tín là cần thiết để xác định đạo đức, hành vi của quần chúng.
Giôn Lốccơ (1632 – 1704) cũng là một đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật Anh.
Tiếp tục phát triển kinh nghiệm của Bêcơn, Lốccơ đưa duy giác luận vào triết học. Nếu Bêcơn khẳng định rằng mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì Lôcơ cho rằng kinh nghiệm là do những tài liệu cảm tính, những cảm giác hợp thành.
Lốccơ bác bỏ thuyết “tư tưởng bẩm sinh” của Đêcáctơ. Ông khẳng định: “không có tư tưởng bẩm sinh”, mà tư tưởng khái niệm của con người xuất hiện trong quá trình con người tiếp xúc với thế giới xung quanh. Cảm giác được hình thành khi con người tiếp cận với thế giới; đó là căn cứ đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nhận thức.
Lốccơ là một trong những người sáng lập ra tự nhiên thần luận. Vào thời bấy giờ, tự nhiên thần luận có tính chất tương đối tiến bộ, đồng thời có tính thoả hiệp. Lốccơ bác bỏ những thuyết tín ngưỡng đương thời, phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội, nhưng ông lại thừa nhận mọi thứ tôn giáo phi lý “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận. Theo Lốccơ, thần linh là một nguyên thể duy lý cao nhất sáng tạo ra thế giới và những quy luật gắn liền với thế giới, nhưng sau đó thần linh không can thiệp vào thế giới mà mình đã sáng tạo.
Do tính chất mâu thuẫn và thoả hiệp nên triết học của Lốccơ về mặt tư tưởng và lý luận là điểm xuất phát cho hai trào lưu tư tưởng đối lập nhau ra đời. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã đánh giá Lốccơ rất cao, đã phát triển duy giác luận của ông, làm cho nó thoát khỏi những lớp duy tâm phủ bên ngoài. Còn các nhà duy tâm chủ quan Anh mà tiêu biểu Béccli thì lại lợi dụng những yếu tố hạn chế trong duy giác luận của Lốccơ và đưa những yếu tố ấy đến chỗ hoàn toàn phi lý. V.I.Lênin nhận xét: duy giác luận tự nó chưa phải là chủ nghĩa duy vật “ Béccli và Điđơrô, cả hai đều xuất phát từ Lốccơ”.
Gióocgiơ Béccli (1684 – 1753)
Là đại biểu lớn của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điểm xuất phát của triết học Béccli là kinh nghiệm cảm tính được giải thích theo nghĩa “những tập hợp ý niệm” “những phức hợp cảm giác”.
Béccli đưa ra một công thức chung: tồn tại tức là được tri giác. Mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì không có khách thể. Công thức này không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy ngã, nghĩa là ngoài cái “tôi” ra thì không có gì hết. Tính chất phi lý hiển nhiên của chủ nghĩa duy ngã được Béccli “giải quyết” bằng cách cho rằng, mọi vật trong vũ trụ, sở dĩ tồn tại cũng vì chúng được Thượng đế tri giác.
Triết học Béccli chống lại nhận thức luận duy vật, thù địch với học thuyết về vật chất. Béccli biết rằng phạm trù vật chất trong tất cả các thời đại đều là nền tảng của các học thuyết triết học vô thần. Vì thế, để chống lại các học thuyết vô thần, Béccli đã tập trung công kích, bác bỏ phạm trù vật chất, “viên đá tảng” của toà lâu đài duy vật triết học. Ông ta cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn nhất là tồn tại, còn tất cả những gì phổ biến – trước hết là thực thể vật chất -đều bị xem là trừu tượng trống rỗng.
Đavít Hium (1711 – 1766)
Nhà triết học Anh tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của Béccli. Nhưng khác với Béccli, Hium đi đến chủ nghĩa hoài nghi và thuyết “không thể biết”. Hium không thừa nhận bất cứ một thực thể nào. Thực thể, theo ông, chỉ là một sự trừu tượng giả dối được hình thành trên cơ sở của thói quen tâm lý giản đơn.
Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII
Các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII mà các đại biểu xuất sắc là LaMettri (1709 -1751), Hônbách (1729 – 1789), Điđơrô (1713 – 1784), Henvêtruýt (1715 – 1771) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của triết học duy vật và vô thần. Họ đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu với giới tự nhiên. Họ cho rằng, không nắm được các quy luật của tự nhiên thì con người không thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận thức và chinh phục giới tự nhiên.
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp thừa nhận vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. Các nhà duy vật Pháp quan niệm rằng, vật chất là vĩnh cửu và vô tận, không thể biến đổi vật chất thành hư vô, cũng như không thể từ hư vô tạo nên vật chất, vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được; không gian và thời gian là thuộc tính cơ bản của vật chất. Vận động theo họ, biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với vật chất. Nhờ vận động mà giới tự nhiên luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những nhà nhất nguyên luận duy vật, nhưng cũng như các nhà duy vật trước Mác, họ chưa thấy được ý thức không chỉ là sản phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Tuy đã đi xa hơn các nhà duy vật của thế kỷ XVII, những nhà duy vật Pháp của thế kỷ XVIII vẫn không tránh khỏi tính chất siêu hình và cơ giới trong quan niệm về vật chất và vận động. Vận động, theo họ, chỉ là sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không gian.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII cũng chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Họ đã phạm sai lầm khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội và các quan hệ xã hội giữa con người đều phụ thuộc vào ý kiến, đặc biệt là ý kiến của những người cầm đầu nhà nước.
Mặc dù có những thiếu sót nhất định, chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã có tác động tích cực đến sự phát triển tri thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh chính trị – xã hội thời bấy giờ. Nó đóng vai trò là cơ sở triết học cho những tư tưởng cách mạng của Cách mạng tư sản Pháp.
Triết học cổ điển Đức
Điều kiện kinh tế – xã hội và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của Cantơ, trải qua Phíchtơ, Sêlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Điều kiện kinh tế-xã hội của nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
* Về kinh tế:
Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một giang sơn phong kiến điển hình, với 360 quốc gia tự lập trong một Liên bang Đức hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị.
Trong khi đó ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp, ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp.
* Về chính trị-xã hội:
Với tấm gương các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị, họ vừa muốn làm cách mạng lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước.
* Về tư tưởng:
Giai cấp tư sản Đức không làm được cuộc cách mạng tư sản trên thực tiễn nhưng lại làm được cuộc cách mạng về phương diện tư tưởng. Đặc biệt trong lĩnh vực triết học, nước Đức đã có nền triết học phát triển rực rỡ nhất từ trước tới lúc đó.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh của những điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội nước Đức mà còn cả các nước châu Âu lúc đó.
Đặc điểm của triết học cổ đỉển Đức
* Do điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức, nên triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó thì cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Tiêu biểu nhất trong triết học của Hêghen.
* Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Tuy nhiên, các nhà triết học cổ điển Đức đã thần thánh hoá trí tuệ và sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên.
* Triết học cổ điển Đức tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, từ đó, xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp triết học đối lập với phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Một số nhà triết học tiêu biểu
I.Cantơ (1724 – 1804)
* Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết và giá trị về sự hình thành của vũ trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một luận đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thuỷ triều do lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho vòng xoay của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu hình (kể cả trong triết học và khoa học).
* Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên:
+ Một mặt là nhà triết học duy vật khi ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có thể tác động tới các giác quan của chúng ta.
+ Mặt khác, là nhà triết học duy tâm khi ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là “thế giới vật tự nó”, chúng chỉ là “các hiện tượng …phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý tính của ta tạo ra”. “Vật tự nó” là cái gì không thể nhận thức được, siêu nghiệm và ở bên kia thế giới. Tức nhận thức con người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật. Như vậy, trong lĩnh vực nhận thức luận Cantơ, là người theo thuyết “không thể biết” (mặc dù có khác với thuyết “không thể biết” của Hium. Cantơ chia thế giới thành:
+ Thế giới những vật tự nó: tồn tại khách quan, không nhận thức được, phụ thuộc thế giới siêu nghiệm, là bản chất của sự vật, không phải là đối tượng của nhận thức.
+ Thế giới các hiện tượng: tồn tại chủ quan, nhận thức được, phụ thuộc thế giới kinh nghiệm, là hiện tượng của sự vật, là đối tượng của nhận thức (là những gì cảm giác và tri giác được như: đất, nước, cây, núi…)
C.Mác, Phoiơbắc, Ăngghen và V.I. Lênin đánh giá cao những công trình của Cantơ về khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã bác bỏ thuyết không thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan điểm duy tâm của Cantơ về không gian và thời gian, về các phạm trù, bởi vì Cantơ coi phạm trù chỉ là hình thức tiên thiên lý tính của con người.
Hêghen (1770 – 1831)
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan, đại diện lớn của nền triết học cổ điển Đức.Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội.
* Hệ thống duy tâm trong triết học Hêghen: Ông cho rằng khởi nguyên của thế không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. “Ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn. “Ý niệm tuyệt đối”, theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách khác nói về thượng đế mà thôi. Cho nên, triết học của Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo.
* Phép biện chứng – hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen: Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã phát hiện ra các quy luật, các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành khoa học về sự phát triển của tất cả mọi sự vật và tư tưởng.
Song, rất đáng tiếc phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm. Ông cho rằng sự vận động, biến đổi, phát triển của tự nhiên, xã hội là do sự vận động và phát triển của bản thân tư duy, ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của Hêghen, ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra và quyết định. Nó là một sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là “tinh thần tuyệt đối”.
+ Trong các quan điểm xã hội: Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là “hiện thân của tinh thần vũ trụ mới”.
Chế độ nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan đồng thời là nhà triết học biện chứng: + Là nhà triết học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào con người, tạo ra thực tại khách quan. Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối. Tính đa dạng của thực tiễn được Hêghen xem như kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
+ Là nhà biện chứngông đã có công nêu ra những phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, cho nên Mác gọi đó là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó là những quy luật của sự phát triển “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn chỉ là người đầu tiên trình bày thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình không ngừng vận động biến đổi, phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động phát triển ấy.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
Lútvích Phoiơbắc (1804 – 1872)
Là một trong những nhà duy vật lớn nhất của thời kỳ trước C.Mác. Công lao vĩ đại của Phoiơbắc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại vị trí xứng đáng của triết học duy vật; đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và vào chủ nghĩa duy tâm nói chung.
* Quan niệm duy vật triệt để về tự nhiên: Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới là vật chất; giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó, cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên.
* Triết học nhân bản: Phoiơbắc đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra thượng đế.
Phoiơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người và thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế, những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng thượng đế; từ đó Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế đó là: con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoiơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Từ sai lầm này mà Phoiơbắc đã trượt từ chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về tự nhiên sang chủ nghĩa duy tâm trong xã hội khi ông cho rằng cần thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên bằng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội.
* Nhận thức luận: Công lao của Phoiơbắc ở chỗ ông công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới, những gì hôm nay chưa nhận thức được thì các thế hệ mai sau tiếp tục nhận thức. Đối tượng nhận thức là giới tự nhiên, là thế giới vật chất không phụ thuộc vào ý thức của con người. Ông đã phê phán kịch liệt những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết.
Trong khi phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc chỉ mới hiểu được thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu của con người về tinh thần, về sinh lý, mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, là đấu tranh giai cấp trong xã hội của con người, và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính. Đó là những hạn chế của ông trong lý luận nhận thức.
Phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen: Phoiơbắc phê phán “tinh thần tuyệt đối” của Hêghen nhưng lại vứt bỏ luôn phép biện chứng- mặt tiến bộ, hạt nhân hợp lý trong hệ thống triết học của Hêghen.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế nhưng cuộc đấu tranh của ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao. Vì vậy, triết học duy vật của Phoiơbắc là một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác.
Nhận định về nền triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng thời cổ đại Hy Lạp đã chưa có thể đạt được tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu cũng không có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm, nhất là duy tâm khách quan của Hêghen, còn chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực chất không vượt qua trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu.
Tóm lại, triết học cổ điển Đức là phản ánh tư tưởng của giai cấp tư sản Đức đó là: vừa biểu hiện tính thoả hiệp thủ tiêu đấu tranh, sợ phong trào quần chúng không dám tiến hành cuộc cách mạng đưa nước Đức phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa như Anh, Pháp, Hà Lan, vừa phản ánh mặt cách mạng, tiến bộ của thời đại, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thời kỳ này ở các nước Tây Âu. Do đó, triết học cổ điển Đức thể hiện tính hai mặt: vừa có tính cách mạng, vừa có tính phản động.
Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.